Trước hết, cần khẳng định, tại Việt Nam cũng như tại nhiều quốc gia khác, pháp luật trao cho chủ thể quyền SHTT (chủ sở hữu quyền SHTT hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền SHTT) quyền chủ động trong việc bảo vệ quyền SHTT của mình. Và cũng cần khẳng định, xuất phát từ đặc tính vô hình của các tài sản trí tuệ và giá trị thương mại to lớn của chúng đối với chủ thể quyền SHTT, đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, quyền SHTT rất dễ bị xâm phạm trên thực tế. Vì vậy, việc đảm bảo thực thi các quy định của pháp luật về quyền SHTT, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền SHTT, đảm bảo cân bằng lợi ích của chủ thể quyền và lợi ích xã hội, lợi ích của các bên liên quan luôn là mục tiêu cơ bản của bất kỳ hệ thống pháp luật SHTT nào. Cũng vì vậy, thực thi quyền SHTT luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống SHTT. Đây cũng là vấn đề khó nhất trong bảo hộ quyền SHTT, là thách thức mà các quốc gia, kể cả những quốc gia có hệ thống SHTT phát triển cũng phải đối mặt.
Nhận thức đúng tầm quan trọng của việc thực thi quyền SHTT trong việc bảo hộ quyền SHTT, trong sự phát triển kinh tế - xã hội và trong tiến trình hội nhập sâu, rộng vào quan hệ kinh tế quốc tế, trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh các biện pháp thực thi quyền SHTT. Như vậy, có thể khẳng định, Nhà nước Việt Nam luôn có chính sách tăng cường bảo hộ quyền SHTT trong đó tập trung đẩy mạnh công tác thực thi quyền SHTT. Chính sách này được thực hiện thông qua việc hoàn thiện khung pháp lý cho công tác thực thi quyền SHTT, tăng cường năng lực của cơ quan thực thi quyền SHTT và trao quyền chủ động cho chủ thể quyền trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT bao gồm các biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự, tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến SHTT, biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính.
1. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt hành chính (Điều 211, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
1. Tổ chức, cá nhân thực hiện một trong các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ sau đây bị xử phạt vi phạm hành chính:
a) Thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội;
b) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 5.A.3.3 Chương này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này;
c) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ tem, nhãn hoặc vật phẩm khác mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý giả mạo hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này.
2. Chính phủ quy định cụ thể về hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt vi phạm hành chính, hình thức, mức phạt và thủ tục xử phạt.
3. Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh.
3. Hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ
(Điều 213, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
1. Hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Phần này bao gồm hàng hoá giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hoá giả mạo nhãn hiệu) quy định tại khoản 2 Điều này và hàng hoá sao chép lậu quy định tại khoản 3 Điều này.
2. Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý.
3. Hàng hoá sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên quan.
4. Các hình thức xử phạt hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả
(Điều 214, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
1. Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 211 khoản (1) Chương này bị buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bị áp dụng một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
2. Tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Tịch thu hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ;
b) Đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm.
3. Ngoài các hình thức xử phạt quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:
a) Buộc tiêu huỷ hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ;
b) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hoá quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc buộc tái xuất đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ các yếu tố vi phạm trên hàng hoá.
4. Mức phạt, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
5. Các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính
(Điều 215, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
1. Trong các trường hợp sau đây, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính quy định tại khoản 2 Điều này:
a) Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội;
b) Tang vật vi phạm có nguy cơ bị tẩu tán hoặc cá nhân, tổ chức vi phạm có biểu hiện trốn tránh trách nhiệm;
c) Nhằm bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
2. Biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính được áp dụng theo thủ tục hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm:
a) Tạm giữ người;
b) Tạm giữ hàng hoá, tang vật, phương tiện vi phạm;
c) Khám người;
d) Khám phương tiện vận tải, đồ vật; khám nơi cất giấu hàng hoá, tang vật, phương tiện vi phạm về sở hữu trí tuệ;
đ) Các biện pháp ngăn chặn hành chính khác theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
2. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử lý hình sự
(Điều 212, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
2.1. Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
(Điều 170, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
1. Người nào có thẩm quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ mà vi phạm quy định của pháp luật về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
2.2. Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
(Điều 170a, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
1. Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan mà thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm:
a) Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;
b) Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi hình.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ bốn trăm triệu đồng đến một tỷ đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
2.3. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
(Điều 171, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
1. Người nào cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ bốn trăm triệu đồng đến một tỷ đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
2.4. Khởi tố vụ án hình sự
(khoản 1, Điều 105, Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003)
Những vụ án về các tội phạm được quy định tại Điều 5.A.3.8 khoản (1)của Chương này chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
3. Xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHCN bằng biện pháp dân sự
Trong số các biện pháp bảo vệ nêu trên, biện pháp khởi kiện ra tòa án để giải quyết bằng thủ tục dân sự đáng được coi trọng. Đây là biện pháp được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm theo yêu cầu của chủ thể QSHCN hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra, kể cả khi hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc biện pháp hình sự.
3.1. Các biện pháp dân sự được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Theo quy định tại Điều 202 của Luật sở hữu trí tuệ, để xử lý tổ chức cá nhân có hành vi xâm phạm QSHTT nói chung, tòa án có quyền áp dụng các biện pháp dân sự bao gồm: buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại; buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm QSHTT với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Các biện pháp dân sự nêu trên cũng đã được ghi nhận trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Theo đó, tại điểm c khoản 2 Điều 12 quy định: “Mỗi bên cho phép cơ quan tư pháp của mình buộc một bên trong vụ kiện chấm dứt hành vi xâm phạm, kể cả các biện pháp ngăn ngừa sự xâm nhập vào kênh thương mại của những hàng hóa xuất nhập khẩu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngay sau khi hoàn thành thủ tục hải quan đối với hàng hóa đó”.
Tại Điều 44 Hiệp định TRIPs thì “các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh cho một bên trong vụ kiện chấm dứt sự xâm phạm, để cùng với các mục đích khác nhằm ngăn cản sự xâm nhập của hàng hóa nhập khẩu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vào các kênh thương mại trong phạm vi quyền hạn của mình sau khi tiến hành thủ tục hải quan” [8]. Như vậy, theo các Hiệp định nêu trên thì Tòa án yêu cầu bên vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm là một biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng cả trước khi thụ lý xét xử vụ việc.
Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm là việc Tòa án quyết định buộc người có hành vi xâm phạm QSHCN chấm dứt ngay hành vi xâm phạm theo yêu cầu của người khởi kiện (ví dụ: buộc người có hành vi xâm phạm QSHCN đối với nhãn hiệu chấm dứt việc sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó). Tòa án có thể quyết định buộc người có hành vi xâm phạm QSHCN chấm dứt hành vi xâm phạm trong bản án hoặc trong quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong đó Tòa án phải nêu cụ thể các QSHCN bị xâm phạm và các hành vi xâm phạm QSHCN, đồng thời Tòa án cũng quy định rõ những việc người có hành vi xâm phạm QSHCN phải thực hiện và không được thực hiện để thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 123 của BLTTDS thì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay. Do đó nếu người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc chấm dứt hành vi xâm phạm QSHCN khiếu nại quyết định đó thì trong thời hạn khiếu nại, giải quyết khiếu nại họ vẫn phải thi hành quyết định. Đối với trường hợp Tòa án quyết định trong bản án việc buộc chấm dứt hành vi xâm phạm QSHCN mà bản án đó bị kháng cáo, kháng nghị thì theo quy định tại khoản 1 Điều 254 của BLTTDS thì phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành ngay. Do vậy, cần căn cứ vào quy định cụ thể của văn bản quy phạm pháp luật cho thi hành ngay phần bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và quy định của khoản 1 Điều 254 của BLTTDS để tuyên trong bản án, quyết định là: Quyết định buộc chấm dứt hành vi xâm phạm QSHCN được thi hành ngay mặc dù bị kháng cáo, kháng nghị.
Buộc xin lỗi, cải chính công khai cũng là một biện pháp được quy định tại điều 202 của Luật SHTT. Đây là biện pháp do Tòa án quyết định trong bản án, quyết định về việc buộc người có hành vi xâm phạm QSHCN phải xin lỗi, cải chính công khai nhằm khôi phục danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng... cho chủ thể QSHCN bị xâm phạm. Việc buộc xin lỗi, cải chính công khai nhằm mục đích bảo vệ quyền nhân thân của tác giả và khôi phục danh dự, uy tín cho tác giả. Trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về nội dung, cách thức xin lỗi, cải chính công khai và chi phí để thực hiện việc xin lỗi, cải chính đó mà thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội thì tòa án công nhận sự thỏa thuận của họ. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau về nội dung, cách thức thực hiện việc xin lỗi, cải chính công khai và chi phí thực hiện thì Tòa án căn cứ vào tính chất hành vi xâm phạm và mức độ, hậu quả do hành vi đó gây ra quyết định về nội dung, thời lượng xin lỗi, cải chính công khai và chi phí thực hiện. Việc xin lỗi, cải chính công khai có thể được thực hiện trực tiếp tại nơi có địa chỉ chính của người bị thiệt hại hoặc đăng công khai trên báo hàng ngày của cơ quan trung ương, báo địa phương nơi có địa chỉ chính của người bị thiệt hại trong ba số liên tiếp.
Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự là biện pháp được Tòa án quyết định áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nghĩa vụ đối với chủ thể QSHCN. Đây là biện pháp dân sự được áp dụng khi người có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng và phải chịu trách nhiệm dân sự đối với chủ thể QSHCN. Khi áp dụng biện pháp này cần căn cứ vào các quy định tương ứng tại các mục 2 và 3 Chương XVII, Phần thứ ba của Bộ luật dân sự 2005.
Một biện pháp dân sự quan trọng khác được sử dụng khi có hành vi xâm phạm QSHCN xảy ra đó là biện pháp buộc bồi thường thiệt hại. Theo đó, người có hành vi xâm phạm QSHCN mà gây thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần cho chủ thể QSHCN thì phải bồi thường. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người có hành vi xâm phạm quyền SHCN theo quy định của pháp luật Việt Nam được xác định theo các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 604 của Bộ luật dân sự và hướng dẫn tại mục 1 Phần 1 của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Thiệt hại do hành vi xâm phạm QSHCN được bồi thường bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Trong đó thiệt hại về vật chất bao gồm: các tổn thất về tài sản; mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận; tổn thất về cơ hội kinh doanh; chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại. Thiệt hại về tinh thần bao gồm: các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín danh tiếng gây ra cho tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí.
Thiệt hại về vật chất và tinh thần là sự tổn thất thực tế về vật chất và tinh thần do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra cho chủ thể QSHCN và được xác định theo các căn cứ quy định tại khoản 2 điều 16 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP. Theo đó, được coi là tổn thất thực tế nếu có đủ các căn cứ sau đây: lợi ích vật chất hoặc tinh thần là có thực và thuộc về người bị thiệt hại; người bị thiệt hại có khả năng đạt được lợi ích; có sự giảm sút hoặc mất lợi ích của người bị thiệt hại sau khi hành vi xâm phạm xảy ra so với khả năng đạt được lợi ích đó khi không có hành vi xâm phạm và hành vi xâm phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm sút, mất lợi ích đó.
Buộc tiêu hủy hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm QSHCN với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể QSHCN. Tòa án xem xét quyết định buộc tiêu hủy hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện nêu trên mà không phụ thuộc vào việc chủ thể quyền có yêu cầu hay không có yêu cầu. Khi quyết định buộc tiêu hủy hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm QSHCN, Tòa án sẽ quyết định trách nhiệm của người có hành vi xâm phạm QSHCN phải chịu chi phí cho việc tiêu hủy đó.
3.2. Các quy định về quyền khởi kiện và chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm QSHCN.
- Quyền khởi kiện và điều kiện khởi kiện
Quyền khởi kiện: khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan tổ chức tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình [10]. Người khởi kiện phải có đơn khởi kiện, nội dung đơn khởi kiện phải có các nội dung quy định tại Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự, kèm theo đơn khởi kiện, người khởi kiện phải cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đơn khởi kiện được nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua đường bưu điện. Khi nhận được đơn, Tòa án phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Tòa án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây: tiến hành thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; chuuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện biết, nếu vụ án đó không thuộc thẩm quyền của Tòa án.
- Chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm quyền SHCN
Theo quy định tại Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ thì: “Nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có quyền và nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 79 của BLTTDS và theo quy định tại Điều này” (Điều 203.1 Luật SHTT) [6]. Như vậy, một trong những quyền và nghĩa vụ đầu tiên của chủ sở hữu quyền và của người vi phạm quyền là quyền và nghĩa vụ chứng minh đã được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự: “đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp”. (khoản 1, Điều 79, BLTTDS).
Đối với nguyên đơn: theo quy định tại khoản 2 Điều 203 của Luật Sở hữu trí tuệ, để chứng minh là chủ thể QSHCN, nguyên đơn phải đưa ra một trong các chứng cứ sau đây: Văn bằng bảo hộ, Sổ đăng ký quốc gia về SHCN, chứng cứ cần thiết để chứng minh quyền đối với bí mật kinh doanh, tên thương mại, nhãn hiệu nổi tiếng; bản sao hợp đồng sử dụng đối tượng SHCN trong trường hợp quyền sử dụng được chuyển giao theo hợp đồng.
Ngoài ra nguyên đơn phải cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm QSHCN hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh (khoản 3 Điều 203 Luật SHTT). Theo quy định tại Điều 25 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP thì các tài liệu, hiện vật sau được coi là chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm QSHCN: bản gốc hoặc bản sao hợp pháp tài liệu mô tả, mẫu vật, hiện vật có liên quan thể hiện đối tượng được bảo hộ; Vật mẫu, hiện vật có liên quan, ảnh chụp, bản ghi hình sản phẩm bị xem xét; bản giải trình, so sánh giữa sản phẩm bị xem xét với đối tượng được bảo hộ; biên bản, lời khai, tài liệu khác nhằm chứng minh xâm phạm.
Đối với bị đơn: theo quy định tại khoản 2 Điều 79 BLTTDS thì: “đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh” (Điều 79.2 BLTTDS). Trường hợp một bên trong vụ kiện xâm phạm QSHTT chứng minh được chứng cứ thích hợp để chứng minh cho yêu cầu của mình bị bên kia kiểm soát do đó không thể tiếp cận được thì có quyền yêu cầu tòa án buộc bên kiểm soát chứng cứ phải đưa ra chứng cứ đó” [6]. Đây là sự nội luật hóa quy định trong Hiệp định TRIPs: cách thu thập chứng cứ đang nằm trong sự kiểm soát của phía bên kia rằng khi một bên trong vụ kiện đã đưa ra những chứng cứ có thể có được một cách hợp lý đủ để làm căn cứ cho yêu cầu của mình đang do phía bên kia kiểm soát, thì cơ quan xét xử phải có quyền bắt buộc phía bên kia đưa ra những chứng cứ đó (khoản 1 Điều 43 Hiệp định TRIPs) .
3.3. Xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ thì: “trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì nguyên đơn phải chứng minh thiệt hại thực tế đã xẩy ra và nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 205 của Luật Sở hữu trí tuệ”.
Thiệt hại được xác định theo quy định tại Điều 204 Luật Sở hữu trí tuệ gồm có: i) thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại; ii) thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng. iii) Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể QSHCN phải chịu do hành vi xâm phạm QSHTT gây ra.
3.4. Về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Khi phát hiện vi phạm, chủ sở hữu QSHCN thường muốn có ngay được các biện pháp hữu hiệu cần thiết, nhanh chóng nhất để ngăn chặn một cách kịp thời, có hiệu quả các hành vi vi phạm quyền, lợi ích chính đáng của mình, tức là muốn hành động để chấm dứt ngay lập tức hành vi vi phạm quyền SHCN. Điều 206 Luật SHTT quy định: “khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các trường hợp sau đây: a) đang có nguy cơ xẩy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể QSHTT; b) hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm QSHTT hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm QSHTT có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu hủy nếu không được bảo vệ kịp thời”.
Điều 207 Luật SHTT quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời bao gồm: thu giữ, kê biên, niêm phong, cấm thay đổi hiện trạng, cấm di chuyển, cấm dịch chuyển quyền sở hữu. Như vậy, so với quy định tại BLTTDS năm 2004 thì chủ thể quyền trong Luật SHTT có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 206 của Luật SHTT thì: “Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của chủ thể QSHTT quy định tại khoản 1 điều này trước khi nghe ý kiến của bên bị áp dụng biện pháp đó” [6]. Đây là quy định có tính chất đặc thù của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong vụ án liên quan đến QSHTT.
Tại đoạn 2 Điều 13 chương II của BTA quy định: Mỗi bên cho phép các cơ quan xét xử của mình được yêu cầu người nộp đơn phải nộp một khoản bảo chứng hoặc bảo đảm tương đương đủ để bảo vệ lợi ích của bị đơn và ngăn ngừa sự lạm dụng [7]. Phù hợp với yêu cầu này, tại khoản 4 Điều 117 BLTTDS và hướng dẫn tại Mục 7 của Nghị quyết số 02/2005 thì chỉ được phong tỏa tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện [11]. Điều 208 Luật SHTT cũng đã quy định nghĩa vụ của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau: người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại gây ra cho người bị áp dụng biện pháp đó trong trường hợp người đó không xâm phạm QSHTT. Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ này, người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp khoản bảo đảm bằng một trong các hình thức: khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hóa cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc tối thiểu hai mươi triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị hàng hóa đó; chứng từ bảo lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác. Việc bồi thường do hành vi xâm phạm QSHTT gây ra được thực hiện theo nguyên tắc chung của BLDS, tức là phải có thiệt hại xảy ra, có lỗi, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả xẩy ra.
Qua sự phân tích các quy định của pháp luật về bảo vệ QSHCN bằng biện dân sự cho thấy pháp luật về bảo vệ QSHCN được hình thành và phát triển song hành với chính sách phát triển kinh tế của đất nước, do vậy các quy phạm pháp luật về bảo vệ QSHCN được xây dựng và bổ sung theo hướng ngày càng toàn diện, phù hợp và hài hoà hơn với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, cho đến nay, việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự tại TAND vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, điều này thể hiện ở tính đồng bộ, tính minh bạch của pháp luật chưa cao, làm cho tính khả thi bị hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự. Đây là cơ sở thực tiễn để làm căn cứ cho việc đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ QSHCN tại Việt Nam trong thời gian tới.
(Bài viết này thuộc Bản quyền hợp pháp của Luật Hà Trần và các đối tác, nghiêm cấm sao chép dưới mọi hình thức)
Để được tư vấn pháp luật, Quý khách hàng vui lòng liên hệ:
Luật sư - Giám đốc điều hành
Hà Kim Tâm
Email: luatsu@luathatran.vn
Liên hệ với luật sư: 090 419 0080
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT 24/7: 024 32191780